Mở Đầu,
"Tu là cõi phúc, Tình là giây
oan", "Ðời là bể khổ, Tu là giải thoát". Nhưng tu là tu cái gì?
Tu làm sao? Tu có phải ăn hiền ở lành, ăn chay niệm Phật không? Hay phải vào chùa
cạo tóc xuất gia là tu chăng? Ở đây xin miễn nói về triết lý đạo
Phật vì Kinh sách nói về triết lý đạo Phật đã
có rất nhiều, nhưng quy tụ cũng không
ngoài Tứ Diệu Ðế. Quý vị có thể tìm sách nghiên cứu, hoặc là đến chùa thăm hỏi quý
Thầy, quý Cô chỉ cho. Về Tứ Diệu Ðế, trong các kinh sách thường nói như vầy: Khổ đế là quả
luân hồi. Tập đế là nhân luân hồi. Diệt đế
là quả Niết Bàn. Ðạo đế là nhân Niết Bàn. Chắc chắn Tứ Diệu Ðế là chân lý cao thượng, nhưng theo tôi nghĩ thì Ðạo
đế quan trọng hơn cả. Vì chỉ có Ðạo đế
mới làm đạo Phật khác hẳn các đạo khác.
Vì sao? Vì các đạo khác cũng biết đời
là khổ, biết tu hành để cầu sự sung sướng,
nhưng con đường đi của họ không thể đưa tới
sự giải thoát rốt ráo.
Khổ thì chúng ta đã khổ rồi, nguyên
nhân của khổ thì chúng ta đã tạo rồi, Niết
Bàn thì chưa đạt tới, chỉ có con đường đưa
đến Niết Bàn mà chúng ta cần và đang tiến bước là hiện tại. Chỉ có giờ phút
hiện tại là chúng ta có thể sung sướng hay
khổ đau, là tốt hay xấu mà thôi. Ngày hôm
qua anh B có thể đã giết bao mạng người, nhưng ngày hôm nay đây anh đang cứu sống tôi. Nói như thế, độc giả có
thấy được tầm quan trọng của giờ phút hiện
tại không?
Nếu thấy được chỉ có trong giờ phút
hiện tại mà ta có thể là một người hiền
hay ác, sung sướng hay đau khổ, giác ngộ
hay vô minh, thì các bạn sẽ cảm thấy hứng
thú hành theo pháp Thiền này. Tu Thiền
vì sao ít có người hành? Vì đa số chỉ
thấy ngày hôm qua và ngày mai thôi, họ ít
thấy hiện tại. Những người tu theo Tịnh Ðộ cũng vậy, họ không chịu thấy hiện tại,
họ chỉ muốn thấy ngày sau (khi chết) được
ở Cực Lạc. Bây giờ chỉ lo đếm tiền, đến
tối mới đi niệm Phật vài chuỗi gọi là lấy
công với Ðức Phật Di Ðà. Người tu theo
pháp môn tụng Kinh thì chỉ ưa tụng những Kinh Ðại Thừa nổi tiếng như Pháp
Hoa, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Kim Cang... Mỗi khi đến chùa, có ai hỏi độ này tu hành
ra sao, thì trả lời: "Ðộ này tôi
tụng được 7 bộ Pháp Hoa, 4 bộ Niết Bàn..." rồi
lấy đó làm hãnh diện cho là mình tu nhiều. Kỳ
thực tham, sân, si ngã mạn của mình
không giảm, mà có điều lại tăng thêm. Ðến
chùa thì chỉ hay ăn nói khoe khoang,
khen Thầy này, chỉ trích Thầy kia, thế này
thế nọ... Ðây không phải chỉ trích ai cả
mà để nói lên tình trạng tâm lý của đa số
những người tu theo pháp môn tụng Kinh, niệm Phật.
Còn Thiền thì sao? Tình trạng tâm lý
của những người tu Thiền có hơn gì người
tu Tịnh Ðộ không? Người tu ngày nay chỉ chuyên nghiên cứu Thiền, rõ biết lịch
sử của chư Thiền Ðức thuở xưa. Mỗi khi
nói đến Thiền, thường đem ra kể cho Phật
tử nghe để rồi gieo cho họ ý nghĩ là
Thiền dành cho những hàng thượng căn thượng
trí, còn thời nay mạt pháp, chúng
ta là hạ căn độn trí chỉ nên niệm Phật cho
chắc ăn.
Những hành động, cũng như thành tích của các Thiền Sư chứng ngộ đều có tính cách lạ kỳ, phá chấp, nên nhiều người
học Thiền thời nay đều hay bắt chước để
rồi tưởng mình cũng phá chấp, phá ngã, đó thật là một điều tai hại và lầm lẫn.
Là bậc Thầy, nên chỉ dẫn cho Phật tử phương pháp hành Thiền, chứ đừng nên kể chuyện Thiền. Dĩ nhiên khi nói về phương
pháp hành Thiền thì thấy khô khan và dễ
làm chán nản cho người nghe, còn nếu kể chuyện Thiền thì hấp dẫn và vui hơn.
Ðó có khác chi một đàng chỉ dẫn cách
thức làm bánh, và đàng khác là tả sự
ngon ngọt của một cái bánh đã thành hình. Một
đàng là nhân, một đàng là quả. Người trí
học tạo nhân vì biết quả sẽ do đó tự thành, người thường chỉ lo biết quả bỏ quên nhân. Ðức Phật xưa kia không nói
nhiều về cảnh giới của Niết Bàn, ngược lại, Ngài đã giảng dạy suốt 45 năm về những phương pháp đưa đến giải thoát mà
ngày nay chúng ta quen gọi là Ðạo Phật.
Ðiều sai lầm của một số người
"tu Thiền" (hay là học Thiền) thời nay là chỉ
thích đem Kinh sách Thiền ra bàn luận và
giảng giải xuyên qua sự hiểu biết của mình. Thay vì nói nhiều về Thiền, một vị
Thầy có thể bảo Thiền sinh nhẹ nhàng ngồi xuống, bắt chéo chân theo tư thế bán
già hoặc kiết già rồi theo dõi hơi thở.
Thay vì ăn uống vội vã hấp tấp cho xong để
còn lo đi làm việc khác, một vị Sư có thể
lặng lẽ, chậm chạp nâng tách trà lên uống
thong thả, đó là dạy Thiền một cách trực
tiếp, không cần dùng ngôn ngữ danh từ.
Thay vì bắt một chú tiểu học thuộc làu bộ
Tỳ Ni, Oai Nghi rồi bắt chú trả bài có
lệ trước khi cho thọ giới, vị Thầy đó
có thể kiểm soát trực tiếp hoặc cho đệ tử
biết giữ chánh niệm, làm việc thong thả, chậm
rãi, theo dõi từng cử động của thân thể
v.v...
Các nước tu theo Ðại Thừa thường không có địa thế và hoàn cảnh thuận lợi
cho việc tu hành nội tâm, chư Tăng phải thường tiếp xúc việc xã hội, quốc gia nhiều,
ở trong tình thế dễ làm mất chánh niệm. Nhất là ngày nay, quý Thầy lo tạo
chùa to, tượng lớn muốn "hoằng dương chánh pháp", báo Phật ân đức, hành Bồ
Tát đạo, thế nên nhiều đầu công mối nợ, Tăng
Ni trong chùa phải chấp tác nhiều hơn,
và các công việc chùa chẳng khác những việc ngoài đời là bao. Khi các đệ tử
ở vào tình thế, hoàn cảnh dễ mất chánh niệm,
dễ phiền não, lúc đó các bậc Thầy mới
sáng chế ra những phương thức mới mẻ hầu giúp cho đệ tử trở về chánh niệm,
thúc liễm thân tâm.
Kinh sách Ðại Thừa của chúng ta rất phong phú, nhưng ngày nay người tu
theo Ðại Thừa phần đông chỉ còn là những
học giả. Với danh nghĩa hành Bồ Tát đạo,
tùy thuận chúng sanh để độ họ, chúng ta
đã biến đổi nhiều, và đã đi quá xa mục
đích chính của đạo Phật là tìm cầu giác
ngộ giải thoát.
Có người bảo Ðại Thừa là sửa đổi giáo pháp làm sao cho hợp thời cơ để độ
càng nhiều chúng sanh càng tốt. Nhưng ta
hãy nhìn lại xem, hãy so sánh Phật tử Ðại Thừa (Việt Nam, Tàu, Nhật, Ðại Hàn)
và Phật tử Tiểu Thừa (Thái Lan, Tích
Lan, Miến Ðiện...) xem ai thuần thành hơn,
ai sùng đạo và đông hơn? Phật tử Ðại
Thừa, nhất là Việt Nam, thường hay xem thường và chỉ trích chư Tăng. Chắc hẳn có
những Phật tử không hiểu đạo, ăn không nói
có, nhưng cũng có một số người xuất gia
tu hành chân chánh. Tuy nhiên chúng ta không nên "vơ đũa cả nắm".
Chuyện gì xẩy ra cũng có nhân duyên của nó,
không có ai đúng và không có ai lỗi cả, nếu
đúng thì đúng hết, nếu lỗi thì lỗi cả. Ở
đây ta chỉ nên nhận định một cách khách
quan tình trạng Phật giáo Việt Nam mà thôi.
Học rộng, giao dịch nhiều, tụng
Kinh, thuyết pháp, đó là "nghề"
của chư Tăng. Còn sống lặng lẽ, xa lìa ngũ dục,
trở về nội tâm thì sao? Quý Thầy ít cho Phật
tử thấy cái gương đó! Vẫn biết phải
"y pháp bất y nhân", nhưng ngày nay là
đời mạt pháp, căn cơ chúng sanh yếu kém, họ
đâu có thể y theo câu đó một cách dễ dàng.
Và đến lúc nào đó, người thuyết pháp
phải ngưng thuyết pháp và bắt đầu
"thực hành" để làm gương cho họ thấy rõ hơn, để
lòng tin của họ vững chắc hơn.
Nhìn lại các quốc gia theo Phật giáo Nguyên thủy, mang tiếng chỉ lo tự độ,
ích kỷ, nhưng tại sao Phật giáo ở những
nơi đó lại là quốc giáo? Tại sao chư Tăng
ở đó không cần ứng phú, làm đám, cầu
an, cầu siêu, độ sanh, mà Phật tử vẫn
theo, vẫn kính nể? Vì mỗi người biết và
lo làm bổn phận của mình. Các Sư chỉ lo tu
hành, còn Phật tử thì chỉ biết mình có bổn
phận hộ trì cúng dường chư Tăng để các vị
ấy sớm thành đạo quả, và không đòi hỏi
gì khác hơn là Thầy tu chỉ lo tu thôi.
Còn Phật giáo Việt Nam thì sao? Quý Thầy (chịu ảnh hưởng Tàu) chế đặt
ra nhiều nghi thức cúng kiến, các lễ lược, văn nghệ để "tùy thuận chúng
sanh" để rồi cuối cùng bị kẹt trong ấy, bị biến
thành nhân viên của những nghi thức lễ lược
ấy. Phật tử chỉ đến chùa khi trong gia đình
có người chết hay bị bệnh để cầu siêu,
cầu an, hoặc khi có đám chay, đám tiệc,
lúc xong thì lấy tiền ra cúng dường quý
Thầy hay nói đúng hơn là trả công cho quý Thầy, không còn biết cúng dường hay
bố thí một cách trong sạch, bất vụ lợi.
Nhất là hầu hết các chùa Việt Nam hải
ngoại đều theo Tịnh Ðộ, lấy tụng Kinh ứng
phú làm đầu, khiến Phật tử trở nên xem
các vị Sư như những "thợ tụng".
Thầy nào tụng không hay, giọng không tốt thì không
đến chùa đó nữa. Rồi thì quý Thầy sống
trong vòng lẩn quẩn, không làm thợ tụng
thì không được, vì sẽ không còn được
coi như là một ông thầy nữa. Vị nào ý
thức điều đó mà muốn thoát ra cũng khó,
vì nếu thoát ra lại sợ sẽ không có Phật
tử cúng dường, nên đành nhắm mắt, xuôi
tay trôi theo thế tình. Trong một gia đình,
ai có đông con là tự biết mình có nhiều
oan gia ràng buộc, trong chùa cũng vậy,
vị Thầy nào có nhiều Phật tử ưa chuộng mình thì cũng có nhiều sự ràng buộc, nhưng đa số quý Thầy lại lấy đó làm
hãnh diện, tưởng là mình khéo hướng dẫn
Phật tử, mà thật ra đã vô tình làm nô lệ
cho Phật tử. Chùa to, nổi tiếng, đông Phật tử là
những điều mà đa số người xuất gia ngày
nay đều lấy đó làm mục đích đánh dấu sự thành công của mình trên đường đạo. Là Ðại Thừa, theo Bồ Tát đạo, ta được
quyền mở mang, dùng mọi phương tiện phát triển đạo, nhưng xin đừng quên và đi
quá xa nguồn gốc.
Thiền trong Phật giáo Việt Nam bị lãng quên, không những bị lãng quên mà có khi không có chỗ đứng nữa. Số Phật
tử lui tới chùa thường là những người già
lớn tuổi, trong đó đa số lại là phụ nữ,
tính tình hay cầu cạnh, nương tựa, nên rất thích hợp với lối tu cầu tha lực (Tịnh Ðộ).
Thể theo nhu cầu đó, các chùa đã được dựng lập khá nhiều, nhưng đều lấy cúng
kiến làm Phật sự chính.
Những người thanh niên tuổi trẻ, ưa chuộng đạo Phật lại thường không
hay đến chùa, không khí ở chùa không hợp với họ. Họ là những người thích tự
lực, không thích nương tựa mãi nơi cha mẹ, muốn tạo dựng hạnh phúc với chính
hai bàn tay của họ. Ðến với đạo Phật, họ
chỉ thích tu Thiền, nói Thiền. Nhưng tu
Thiền là tu làm sao? Tôi thấy có nhiều người
chỉ "quy y sách Thiền" chứ không
quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Vì không thích lạy Phật, không biết Phật pháp căn
bản, không biết kính trọng các nhà Sư. Có
việc phải đến chùa thì nghênh ngang, tự
tại tựa như "Tổ Ðạt Ma", họ bảo
Thiền là phá chấp, "gặp Phật giết Phật, gặp
Ma giết Ma". Họ có biết đâu là đang
gây cái nhân đọa địa ngục. Tuy vậy ta cũng không
nên trách cứ mà ngược lại nên cảm thương
họ thì đúng hơn.
Như vậy nếu có người muốn tu Thiền
thì phải làm sao? Phải tu theo Thiền nào? Sách viết về Thiền tông tương đối có
khá nhiều, nhưng đa số viết về Thiền học,
về văn chương ngôn ngữ Thiền, về triết
lý Thiền, về Thiền Trung Hoa... Ở đây
tôi muốn giới thiệu, hay đúng hơn là nhắc
lại một phương pháp hành Thiền do chính Ðức Phật Thích Ca đã dạy cho các đệ
tử, đó là pháp Tứ Niệm Xứ. Pháp hành
Thiền này, trong Phật giáo Ðại Thừa hầu
như ít ai nhắc tới, mặc dầu các sách Phật
học phổ thông có nói sơ qua trong 37 phẩm trợ đạo, nhưng nói một cách quá ngắn
gọn về phần lý thuyết và thiếu sót về cách thức tu tập.
(Trích từ cuốn Thiền tứ Niệm Xứ, Hòa Thượng Thích Trí Siêu).
No comments:
Post a Comment